Đăng ký tài khoản - nhận ngàn thông tin
Bạn sẽ là một trong những người đầu tiên nhận được thông tin, tin tức, tin tuyển dụng... sớm nhất từ DHG Pharma. Hãy đăng ký ngay hôm nay để được hưởng ngàn ưu đãi từ DHG Pharma nhé.
Thành phần hoạt chất: Pregabalin ....................... 75 mg
Thành phần tá dược: Manitol, tinh bột biến tính, colloidal silicon dioxyd, talc, natri starch glycolat.
Viên nang cứng.
Mô tả sản phẩm: Viên nang cứng, một đầu màu nâu bạc một đầu màu trắng bạc, bên trong chứa bột thuốc màu trắng hoặc trắng ngà có xen lẫn các hạt tinh thể.
Hộp 3 vỉ x 10 viên.
Hộp 6 vỉ x 10 viên.
Hộp 10 vỉ x 10 viên.
Nhóm dược lý: Thuốc chống động kinh; Các thuốc chống động kinh khác.
Mã ATC: N03AX16.
Hoạt chất, pregabalin, là một chất tương tự gamma-aminobutyric acid [(S)-3-(aminomethyl)-5-methylhexanoic acid].
Cơ chế hoạt động
Pregabalin gắn với 1 tiểu đơn vị phụ (a2-d protein) của các kênh calci mang điện trong hệ thần kinh trung ương.
Hiệu quả lâm sàng và an toàn
Đau thần kinh
Hiệu quả của thuốc đã được chỉ ra từ các nghiên cứu trong bệnh thần kinh đái tháo đường và chứng đau thần kinh sau zona và tổn thương tủy sống. Hiệu quả của thuốc chưa được nghiên cứu trong mô hình đau thần kinh khác.
Pregabalin đã được nghiên cứu trong 10 thử nghiệm lâm sàng có đối chứng kéo dài đến 13 tuần với liều dùng 2 lần/ ngày (BID) và đến 8 tuần với liều dùng 3 lần/ ngày (TID). Nhìn chung, độ an toàn và hiệu quả của phác đồ dùng liều BID và TID là tương tự nhau.
Trong các thử nghiệm lâm sàng khi dùng đến 12 tuần đối với cả đau thần kinh ngoại biên và trung ương, giảm đau được thấy vào tuần 1 và được duy trì trong suốt thời gian điều trị.
Trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng ở bệnh nhân đau thần kinh ngoại biên, 35% bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin và 18% bệnh nhân dùng giả dược đã có cải thiện 50% điểm đau. Đối với những bệnh nhân không bị buồn ngủ, sự cải thiện trong điểm đau đã được quan sát thấy ở 33% bệnh nhân điều trị bằng pregabalin và 18% bệnh nhân dùng giả dược. Đối với những bệnh nhân bị buồn ngủ, tỷ lệ đáp ứng là 48% đối với pregabalin và 16% đối với giả dược.
Trong thử nghiệm lâm sàng có đối chứng ở bệnh nhân đau thần kinh trung ương, 22% bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin và 7% bệnh nhân dùng giả dược đã cải thiện được 50% số điểm đau.
Động kinh: Điều trị bổ trợ
Pregabalin được nghiên cứu trong 3 thử nghiệm lâm sàng có đối chứng trong khoảng điều trị 12 tuần với liều dùng 2 lần/ ngày hoặc 3 lần/ ngày. Nhìn chung, các số liệu về độ an toàn và hiệu quả của các chế độ liều dùng 2 lần/ ngày và 3 lần/ ngày là tương tự nhau.
Sự giảm tần số các cơn động kinh quan sát được ở tuần thứ nhất.
Trẻ em: Hiệu quả và độ an toàn của pregabalin trong điều trị hỗ trợ cho bệnh động kinh ở trẻ em dưới 12 tuổi và thanh thiếu niên vẫn chưa được xác định. Các tác dụng ngoại ý được quan sát thấy trong một nghiên cứu về dược động học và khả năng dung nạp trên bệnh nhân từ 3 tháng đến 16 tuổi (n = 65) bị động kinh khởi phát cục bộ tương tự như quan sát ở người lớn. Kết quả của một nghiên cứu đối chứng với giả dược kéo dài 12 tuần trên 295 bệnh nhi từ 4 đến 16 tuổi và một nghiên cứu đối chứng với giả dược kéo dài 14 ngày trên 175 bệnh nhi từ 1 tháng đến dưới 4 tuổi được thực hiện để đánh giá hiệu quả và độ an toàn của pregabalin như liệu pháp hỗ trợ để điều trị động kinh khởi phát cục bộ và hai nghiên cứu an toàn nhãn mở kéo dài 1 năm ở 54 và 431 bệnh nhi tương ứng, từ 3 tháng đến 16 tuổi mắc bệnh động kinh cho thấy rằng các tác dụng phụ của sốt và nhiễm trùng đường hô hấp trên đã được quan sát thấy thường gặp hơn so với các nghiên cứu ở người lớn bị bệnh động kinh.
Trong nghiên cứu có đối chứng với giả dược kéo dài 12 tuần, trẻ em (4 đến 16 tuổi) được chỉ định dùng pregabalin 2,5 mg/ kg/ ngày (tối đa, 150 mg/ ngày), pregabalin 10 mg/ kg/ ngày (tối đa, 600 mg/ ngày), hoặc giả dược. Tỷ lệ bệnh nhân giảm ít nhất 50% số cơn động kinh khởi phát cục bộ so với ban đầu là 40,6% bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin 10 mg/ kg/ ngày (p = 0,0068 so với giả dược), 29,1% bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin 2,5 mg/ kg/ ngày (p = 0,2600 so với giả dược) và 22,6% bệnh nhân dùng giả dược.
Trong nghiên cứu có đối chứng với giả dược kéo dài 14 ngày, bệnh nhi (từ 1 tháng đến dưới 4 tuổi) được chỉ định dùng pregabalin 7 mg/ kg/ ngày, pregabalin 14 mg/ kg/ ngày, hoặc giả dược. Tần suất co giật trung bình trong 24 giờ tại thời điểm ban đầu và tại lần khám cuối cùng tương ứng là 4,7 và 3,8 đối với pregabalin 7 mg/ kg/ ngày, 5,4 và 1,4 đối với pregabalin 14 mg/ kg/ ngày, và 2,9 và 2,3 đối với giả dược. Pregabalin 14 mg/ kg/ ngày làm giảm đáng kể tần suất động kinh khởi phát cục bộ được biến đổi log so với giả dược (p = 0,0223); Pregabalin 7 mg/ kg/ ngày không cho thấy sự cải thiện so với giả dược.
Trong một nghiên cứu có đối chứng với giả dược kéo dài 12 tuần ở những bệnh nhân động kinh co cứng co giật toàn thể nguyên phát (PGTC), 219 bệnh nhân (từ 5 đến 65 tuổi, trong đó 66 người từ 5 đến 16 tuổi) được chỉ định dùng pregabalin 5 mg/ kg/ ngày (tối đa 300 mg/ ngày), 10 mg/ kg/ ngày (tối đa 600 mg/ ngày) hoặc giả dược như một liệu pháp bổ trợ. Tỷ lệ bệnh nhân giảm ít nhất 50% số cơn động kinh PGTC lần lượt là 41,3%, 38,9% và 41,7% đối với pregabalin 5 mg/ kg/ ngày, pregabalin 10 mg/ kg/ ngày và giả dược.
Đơn trị liệu (bệnh nhân mới được chẩn đoán): Pregabalin đã được nghiên cứu trong 1 thử nghiệm lâm sàng có đối chứng kéo dài 56 tuần với liều BID. Sau 6 tháng, tỷ lệ không bị cơn động kinh khi sử dụng pregabalin thì không vượt trội hơn so với lamotrigin. Pregabalin và lamotrigin tương tự an toàn và được dung nạp tốt.
Rối loạn lo âu lan tỏa: Pregabalin đã được nghiên cứu trong 6 thử nghiệm có kiểm soát trong khoảng thời gian 4 - 6 tuần, một nghiên cứu trên người cao tuổi trong khoảng thời gian 8 tuần và một nghiên cứu ngăn ngừa tái phát dài hạn cùng với một giai đoạn ngăn ngừa tái phát mù đôi trong khoảng thời gian 6 tháng điều trị.
Giảm các triệu chứng của rối loạn lo âu lan tỏa được phản ánh bởi Thang đánh giá độ lo âu Hamilton (HAM-A) quan sát được trong tuần 1.
Trong các nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát (khoảng thời gian 4 - 8 tuần), 52% bệnh nhân điều trị bằng pregabalin và 38% bệnh nhân dùng giả dược đã có cải thiện ít nhất 50% tổng số điểm theo thang đánh giá độ lo âu HAM-A từ trước điều trị tới khi kết thúc điều trị.
Trong các nghiên cứu có đối chứng, một tỷ lệ cao hơn ở các bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin báo cáo nhìn mờ hơn so với những bệnh nhân dùng giả dược đã được giải quyết trong phần lớn các bệnh nhân sử dụng liều liên tục. Các kiểm tra nhãn khoa (bao gồm kiểm tra thị lực, kiểm tra thị trường, kiểm tra giãn nở nội soi) được tiến hành ở hơn 3600 bệnh nhân trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng. Ở những bệnh nhân này, thị lực giảm 6,5% ở những bệnh nhân được điều trị bằng pregabalin và 4,8% bệnh nhân được điều trị bằng giả dược. 12,4% điều trị bằng pregabalin và 11,7% bệnh nhân được điều trị bằng giả dược có những thay đổi về thị trường. 1,7% điều trị bằng pregabalin và 2,1% bệnh nhân được điều trị bằng giả dược quan sát có những thay đổi giãn nở khi nội soi.
Dược động học của pregabalin ở trạng thái ổn định là giống nhau trên những người tình nguyện khỏe mạnh, các bệnh nhân động kinh đang dùng thuốc chống động kinh và các bệnh nhân đau mạn tính.
Hấp thu: Pregabalin được hấp thu nhanh khi uống lúc đói, nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt được trong vòng 1 giờ sau khi sử dụng liều đơn và nhiều liều. Khả dụng sinh học đường uống của pregabalin khoảng = 90% và không phụ thuộc vào liều dùng. Sau khi dùng liều nhắc lại, tình trạng ổn định đạt được trong vòng 24 - 48 giờ. Tỷ lệ hấp thu của pregabalin giảm khi dùng cùng thức ăn dẫn đến Cmax giảm khoảng 25 - 30% và làm chậm Tmax khoảng 2,5 giờ. Tuy nhiên, dùng pregabalin cùng thức ăn không ảnh hưởng lâm sàng đáng kể nào đến mức độ hấp thu pregabalin.
Phân bố: Trong các nghiên cứu tiền lâm sàng, pregabalin dễ dàng qua hàng rào máu não ở chuột nhắt, chuột cống và khỉ. Pregabalin qua được nhau thai ở chuột cống và xuất hiện trong sữa ở những con chuột cho bú. Ở người, thể tích phân bố của pregabalin sau khi dùng đường uống khoảng 0,56 L/ kg. Pregabalin không gắn kết với protein huyết tương.
Chuyển hóa: Pregabalin được chuyển hóa không đáng kể trong cơ thể người. Sau khi dùng pregabalin đánh dấu phóng xạ, khoảng 98% chất phóng xạ thu hồi trong nước tiểu là pregabalin ở dạng chưa chuyển hóa. Dẫn xuất N-methylat của pregabalin, chất chuyển hóa chính của pregabalin được tìm thấy trong nước tiểu, chiếm khoảng 0,9% liều dùng. Trong các nghiên cứu tiền lâm sàng, không có dấu hiệu nào về sự biến đổi pregabalin đồng phân tả truyền thành đồng phân hữu truyền.
Thải trừ: Pregabalin được thải trừ khỏi hệ tuần hoàn chủ yếu do bài tiết qua thận nguyên dạng.
Thời gian bán thải trung bình của pregabalin là 6,3 giờ. Thanh thải pregabalin huyết tương và thanh thải thận tỷ lệ thuận với thanh thải creatinin.
Điều chỉnh liều trên các bệnh nhân giảm chức năng thận hoặc thẩm tách máu là cần thiết.
Tính tuyến tính/ không tuyến tính: Dược động học của pregabalin là tuyến tính trong khoảng liều khuyến cáo hàng ngày. Khoảng biến thiên dược động học của pregabalin là thấp (< 20%). Các đặc tính dược động học đa liều có thể dự đoán từ các dữ liệu của liều đơn. Vì vậy, không cần thiết phải kiểm tra nồng độ pregabalin trong huyết tương định kì.
Giới tính: Các thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy giới tính không có ảnh hưởng lâm sàng đáng kể nào đến nồng độ huyết tương của pregabalin.
Suy thận: Thanh thải pregabalin tỷ lệ thuận với thanh thải creatinin. Thêm vào đó, pregabalin được loại bỏ hiệu quả khỏi huyết tương nhờ thẩm tách máu (sau 4 giờ thẩm tách máu nồng độ huyết tương của pregabalin giảm khoảng 50%). Bởi vì thải trừ qua thận là đường thải trừ chính, giảm liều với bệnh nhân suy thận và dùng liều bổ sung sau thẩm tách máu là cần thiết.
Suy gan: Không có các nghiên cứu dược động học riêng biệt tiến hành trên các bệnh nhân suy gan. Vì pregabalin được chuyển hóa không đáng kể và thải trừ chủ yếu qua nước tiểu ở nguyên dạng, bệnh nhân suy gan không có thay đổi đáng kể về nồng độ pregabalin trong huyết tương.
Trẻ em: Dược động học của pregabalin được đánh giá trên những bệnh nhân nhi bị bệnh động kinh (nhóm tuổi: 1 đến 23 tháng, 2 đến 6 tuổi, 7 đến 11 tuổi và 12 đến 16 tuổi) ở mức liều 2,5; 5; 10 và 15 mg/ kg/ ngày ở một nghiên cứu dược động học và khả năng dung nạp.
Sau khi uống pregabalin khi đói, nhìn chung, thời gian đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương tương đương với toàn bộ nhóm tuổi và xảy ra ở thời điểm 0,5 giờ đến 2 giờ sau khi dùng thuốc.
Các thông số Cmax và AUC tăng tuyến tính với tăng liều trong mỗi nhóm tuổi. AUC thấp hơn 30% ở những bệnh nhân nhi dưới 30 kg vì độ thanh thải điều chỉnh theo cân nặng ở những bệnh nhân này tăng 43% so với những bệnh nhân nhi = 30 kg.
Thời gian bán thải của pregabalin khoảng 3 đến 4 giờ ở bệnh nhân nhi lên đến 6 tuổi và từ 4 đến 6 giờ ở những người từ 7 tuổi trở lên.
Phân tích dược động học trong quần thể cho thấy độ thanh thải creatinin là một biến số đáng kể với độ thanh thải của pregabalin, trong lượng cơ thể ảnh hưởng tới thể tích phân bố của pregabalin, mối liên quan này tương tự ở người lớn và trẻ em.
Dược động học ở trẻ em dưới 3 tháng tuổi chưa được nghiên cứu.
Người cao tuổi: Thanh thải pregabalin có xu hướng giảm theo sự tăng của tuổi. Sự giảm thanh thải pregabalin đường uống phù hợp với sự giảm thanh thải creatinin liên quan đến sự tăng của tuổi. Cần giảm liều pregabalin trên các bệnh nhân tổn thương chức năng thận do tuổi cao.
Phụ nữ cho con bú: Dược động học với liều 150 mg pregabalin mỗi 12 giờ (300 mg/ ngày) được đánh giá ở 10 phụ nữ cho con bú ít nhất 12 tuần sau sinh. Việc cho con bú ít hoặc không ảnh hưởng đến dược động học của pregabalin. Pregabalin được bài tiết vào sữa mẹ với nồng độ ổn định trung bình khoảng 76% nồng độ trong huyết tương của mẹ. Liều trẻ sơ sinh ước tính từ sữa mẹ (giả sử mức tiêu thụ sữa trung bình 150 mL/ kg/ ngày) của phụ nữ sử dụng mức liều 300 mg/ ngày hoặc liều tối đa 600 mg/ ngày sẽ là 0,31 hoặc 0,62 mg/ kg/ ngày. Những liều ước tính này là khoảng 7% tổng liều mẹ sử dụng hàng ngày trên với liều mg/ kg.
ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC LÊN KHẢ NĂNG LÁI XE, VẬN HÀNH MÁY MÓC
Pregabalin có thể có ảnh hưởng nhẹ hoặc vừa đến khả năng lái xe và vận hành máy móc. Pregabalin có thể gây chóng mặt và buồn ngủ, do đó có thể ảnh hưởng đến khả năng lái xe hoặc vận hành máy móc. Bệnh nhân không nên lái xe, vận hành máy móc phức tạp hoặc tham gia vào các hoạt động nguy hiểm khác cho đến khi biết được thuốc có ảnh hưởng hay không đến khả năng thực hiện các hoạt động này.
CẢNH BÁO VÀ THẬN TRỌNG KHI DÙNG THUỐC
Bệnh nhân đái tháo đường: Theo thực hành lâm sàng hiện hành, một số bệnh nhân đái tháo đường tăng cân khi điều trị với pregabalin có thể cần điều chỉnh các thuốc hạ glucose huyết.
Phản ứng quá mẫn: Các phản ứng quá mẫn đã được báo cáo trong quá trình lưu hành thuốc, bao gồm cả các trường hợp phù mạch. Ngưng dùng pregabalin nếu có các triệu chứng phù mạch như phù mặt, quanh miệng hay đường hô hấp trên.
Chóng mặt, buồn ngủ, mất ý thức, lú lẫn và sa sút tinh thần: Điều trị với pregabalin có liên quan đến chóng mặt và buồn ngủ, có thể làm tăng sự xuất hiện của chấn thương do tai nạn (ngã) ở người cao tuổi. Mất ý thức, lú lẫn và sa sút tinh thần đã được báo cáo trong quá trình lưu hành thuốc. Vì vậy, bệnh nhân nên thận trọng cho đến khi quen với những ảnh hưởng tiềm ẩn của thuốc.
Ảnh hưởng liên quan đến thị lực: Trong các thử nghiệm được kiểm soát, những bệnh nhân điều trị với pregabalin có tỷ lệ nhìn mờ cao hơn so với những bệnh nhân dùng giả dược mà đa số các trường hợp này đều khỏi khi vẫn tiếp tục dùng thuốc. Trong các nghiên cứu lâm sàng đã tiến hành thử nghiệm về mắt, tỷ lệ giảm thị lực và thay đổi thị trường ở các bệnh nhân điều trị với pregabalin là lớn hơn so với giả dược; tỷ lệ thay đổi võng mạc là lớn hơn ở bệnh nhân được điều trị so với giả dược.
Trong quá trình lưu hành thuốc, tác dụng không mong muốn về thị giác cũng đã được báo cáo, bao gồm mất thị lực nhìn mờ hoặc thay đổi khác của thị lực, đa số là thoáng qua. Ngưng dùng pregabalin có thể làm phục hồi hoặc cải thiện các triệu chứng về thị giác này.
Suy thận: Các trường hợp suy thận đã được báo cáo và ở một số trường hợp ngưng dùng pregabalin đã cho thấy phản ứng có hại này có khả năng hồi phục.
Ngưng các thuốc chống động kinh dùng đồng thời: Không có dữ liệu đầy đủ về việc ngưng các thuốc chống động kinh dùng đồng thời để tiến đến việc đơn trị với pregabalin, một khi đã đạt được việc kiểm soát cơn động kinh với pregabalin trong trường hợp phối hợp.
Triệu chứng cai thuốc: Sau khi ngưng điều trị ngắn hạn và lâu dài với pregabalin, triệu chứng cai thuốc đã được quan sát thấy ở một số bệnh nhân. Các triệu chứng sau gợi ý đến sự lệ thuộc về thể chất có thể xảy ra: mất ngủ, nhức đầu, buồn nôn, lo lắng, tiêu chảy, hội chứng cúm, căng thẳng, trầm cảm, đau, co giật, tăng tiết mồ hôi và chóng mặt. Bệnh nhân cần được thông báo về điều này khi bắt đầu điều trị.
Chứng co giật, bao gồm cả trạng thái động kinh và co giật cơn lớn, có thể xảy ra trong quá trình sử dụng pregabalin hoặc ngay sau khi ngưng dùng pregabalin.
Liên quan đến việc ngưng điều trị lâu dài pregabalin, dữ liệu cho thấy tỷ lệ mắc phải và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng cai thuốc có thể liên quan đến liều dùng.
Suy tim sung huyết: Đã có báo cáo sau khi lưu hành thuốc về suy tim sung huyết ở một số bệnh nhân dùng pregabalin. Những phản ứng này chủ yếu gặp ở người cao tuổi bị tổn thương tim mạch trong quá trình điều trị với pregabalin đối với chỉ định bệnh thần kinh. Nên sử dụng thận trọng pregabalin ở những bệnh nhân này. Khi ngưng dùng pregabalin, phản ứng này sẽ hết.
Điều trị đau thần kinh trung ương do tổn thương tủy sống
Trong điều trị đau thần kinh trung ương do tổn thương tủy sống, tỷ lệ mắc phải các tác dụng không mong muốn nói chung, các phản ứng bất lợi trên hệ thần kinh trung ương và đặc biệt là buồn ngủ tăng lên. Điều này có thể là do tác dụng cộng gộp bởi các thuốc dùng đồng thời (ví dụ thuốc chống co cứng) cần thiết cho tình trạng này. Điều này cần được xem xét khi kê đơn pregabalin.
Suy hô hấp
Đã có báo cáo về tình trạng ức chế hô hấp nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng pregabalin. Bệnh nhân bị tổn thương chức năng hô hấp, bệnh về hô hấp hoặc thần kinh, suy thận, sử dụng đồng thời thuốc ức chế thần kinh trung ương và người cao tuổi có thể có nguy cơ cao gặp phản ứng có hại nghiêm trọng này. Có thể cần điều chỉnh liều ở những bệnh nhân này.
Ý định và hành vi tự tử: Những ý định và hành vi tự tử đã được báo cáo ở bệnh nhân điều trị với các thuốc chống động kinh trong nhiều chỉ định. Một phân tích tổng hợp các nghiên cứu có đối chứng giả dược ngẫu nhiên của các thuốc chống động kinh cũng đã cho thấy một nguy cơ gia tăng nhẹ ý định và hành vi tự tử. Chưa biết cơ chế của nguy cơ này và các dữ liệu có sẵn không loại trừ khả năng tăng nguy cơ do pregabalin. Do đó bệnh nhân nên được theo dõi các dấu hiệu của ý định và hành vi tự tử và xem xét trị liệu phù hợp. Bệnh nhân (và những người chăm sóc bệnh nhân) cần tìm tư vấn y tế khi xuất hiện các dấu hiệu của ý định và hành vi tự tử.
Chức năng đường tiêu hóa dưới suy giảm: Đã có những báo cáo sau khi lưu hành thuốc về các biến cố có liên quan đến chức năng đường tiêu hóa dưới suy giảm (ví dụ như tắc ruột, tắc liệt ruột, táo bón) khi pregabalin dùng đồng thời với các thuốc có khả năng gây táo bón, như thuốc giảm đau opioid. Khi dùng đồng thời pregabalin và thuốc giảm đau opioid, các biện pháp ngăn ngừa táo bón có thể được xem xét (đặc biệt ở những bệnh nhân nữ và người cao tuổi).
Sử dụng đồng thời với opioid: Cần thận trọng khi kê đơn pregabalin đồng thời với các opioid do nguy cơ ức chế thần kinh trung ương. Trong một nghiên cứu bệnh chứng trên những người sử dụng opioid, những bệnh nhân dùng pregabalin đồng thời với opioid có nguy cơ tử vong do opioid tăng lên so với chỉ sử dụng opioid (tỷ lệ chênh lệch đã điều chỉnh [aOR], 1,68 [95% CI, 1,19 - 2,36]). Nguy cơ gia tăng này được quan sát thấy ở liều lượng pregabalin thấp (= 300 mg, aOR 1,52 [95% CI, 1,04 - 2,22]) và có xu hướng tăng nguy cơ ở liều cao pregabalin (> 300 mg, aOR 2,51 [95 % CI 1,24 - 5,06]).
Dùng sai, khả năng lạm dụng hoặc lệ thuộc thuốc: Các trường hợp dùng sai, khả năng lạm dụng hoặc lệ thuộc thuốc đã được báo cáo. Cần thận trọng ở những bệnh nhân có tiền sử lạm dụng thuốc và bệnh nhân cần được theo dõi các triệu chứng khi dùng sai, lạm dụng hoặc lệ thuộc pregabalin (tăng dung nạp thuốc, tăng liều, hành vi tìm kiếm thuốc đã được báo cáo).
Bệnh não: Các trường hợp bệnh não đã được báo cáo, chủ yếu ở những bệnh nhân đang có các tình trạng có thể thúc đẩy bệnh não.
Liên quan đến tá dược: Thuốc này chứa ít hơn 1 mmol natri (23 mg) mỗi viên, có nghĩa là “không có natri”.
Phụ nữ có khả năng sinh sản/ Ngừa thai ở nam và nữ: Chưa biết nguy cơ tiềm ẩn đối với người, phải sử dụng biện pháp tránh thai có hiệu quả ở phụ nữ có khả năng sinh sản.
Phụ nữ có thai: Không có dữ liệu đầy đủ về việc sử dụng pregabalin ở phụ nữ mang thai. Các nghiên cứu trên động vật đã cho thấy độc tính trên khả năng sinh sản. Chưa biết nguy cơ tiềm ẩn đối với người. Không nên dùng pregabalin trong thời kỳ mang thai nếu không thực sự cần thiết (nếu lợi ích của người mẹ hơn hẳn nguy cơ tiềm ẩn cho bào thai).
Phụ nữ cho con bú: Pregabalin tiết vào sữa mẹ. Chưa biết ảnh hưởng của pregabalin trên trẻ sơ sinh/ trẻ nhỏ. Quyết định ngưng cho con bú hay ngưng dùng pregabalin nên tính đến lợi ích của việc bú sữa mẹ đối với trẻ và lợi ích của việc điều trị đối với người mẹ.
Khả năng sinh sản
Không có dữ liệu lâm sàng về ảnh hưởng của pregabalin đến khả năng sinh sản của phụ nữ.
Trong một thử nghiệm lâm sàng đánh giá ảnh hưởng của pregabalin về khả năng di động của tinh trùng, đối tượng nam khỏe mạnh đã được dùng pregabalin ở liều 600 mg/ ngày. Sau 3 tháng điều trị, không có ảnh hưởng trên khả năng di động của tinh trùng.
Nghiên cứu trên khả năng sinh sản ở chuột cống cái đã cho thấy có tác dụng không mong muốn trên khả năng sinh sản. Nghiên cứu trên khả năng sinh sản ở chuột cống đực đã cho thấy có tác dụng không mong muốn trên khả năng sinh sản và ảnh hưởng đến sự phát triển. Chưa biết sự liên quan về mặt lâm sàng của những phát hiện này.
Chương trình thử nghiệm lâm sàng với pregabalin được tiến hành trên 8.900 bệnh nhân dùng pregabalin, trong đó hơn 5.600 bệnh nhân tham gia thử nghiệm mù đôi có kiểm soát với giả dược. Các tác dụng không mong muốn thường gặp nhất được báo cáo là chóng mặt và buồn ngủ. Các tác dụng không mong muốn thường ở mức độ nhẹ và vừa. Trong tất cả các nghiên cứu có kiểm soát, tỷ lệ ngừng thuốc do các tác dụng không mong muốn là 12% đối với bệnh nhân dùng pregabalin và 5% đối với bệnh nhân dùng giả dược. Các tác dụng không mong muốn chủ yếu đưa đến ngừng dùng nhóm pregabalin là chóng mặt và buồn ngủ.
Trong bảng dưới đây về tất cả các tác dụng không mong muốn, được xảy ra ở tỷ lệ lớn hơn giả dược và ở trên nhiều hơn 1 bệnh nhân, được xếp theo phân loại và tần suất (rất thường gặp (= 1/ 10); thường gặp (= 1/ 100 đến < 1/ 10) ); không thường gặp (= 1/ 1.000 đến < 1/ 100); hiếm gặp (= 1/ 10.000 đến < 1/ 1.000); rất hiếm gặp (< 1 /10.000); không rõ (không thể ước tính từ dữ liệu có sẵn)).
Trong mỗi nhóm tần số, các tác dụng không mong muốn được trình bày theo thứ tự mức độ nghiêm trọng giảm dần.
Các tác dụng không mong muốn được liệt kê cũng có thể liên quan đến bệnh lý có từ trước và/ hoặc các sản phẩm thuốc dùng đồng thời.
Trong điều trị đau thần kinh trung ương do tổn thương tủy sống, tỷ lệ các phản ứng có hại nói chung, phản ứng có hại trên thần kinh trung ương và đặc biệt là buồn ngủ tăng lên.
Các phản ứng có hại được báo cáo bổ sung sau khi đưa ra thị trường được in nghiêng trong danh sách bên dưới.
Nhiễm khuẩn và nhiễm ký sinh trùng: Thường gặp: Viêm mũi họng.
Rối loạn máu và hệ bạch huyết: Không thường gặp: Giảm bạch cầu trung tính.
Rối loạn về hệ miễn dịch: Không thường gặp: Quá mẫn cảm. Hiếm gặp: Phù mạch, phản ứng dị ứng.
Rối loạn chuyển hóa và dinh dưỡng: Thường gặp: Tăng cảm giác ngon miệng. Không thường gặp: Chán ăn, hạ đường huyết.
Rối loạn về tâm thần: Thường gặp: Tâm trạng hưng phấn, lú lẫn, cáu kỉnh, mất phương hướng, mất ngủ, giảm ham muốn tình dục.
Không thường gặp: Ảo giác, cơn hoảng loạn, bồn chồn, kích động, phiền muộn, tâm trạng chán nản, hưng phấn, hung hăng, thay đổi tâm trạng, giải thể nhân cách, khó diễn đạt bằng lời nói, những giấc mơ bất thường, tăng ham muốn tình dục, rối loạn cực khoái, thờ ơ. Hiếm gặp: Giải ức chế/ mất phản xạ có điều kiện.
Rối loạn hệ thần kinh: Rất thường gặp: Chóng mặt, buồn ngủ, nhức đầu. Thường gặp: Mất điều hòa, phối hợp bất thường, run, rối loạn vận ngôn, chứng hay quên, suy giảm trí nhớ, rối loạn chú ý, dị cảm, giảm cảm giác, an thần, rối loạn tiền đình, hôn mê. Không thường gặp: Ngất, sững sờ, rung giật cơ, mất ý thức, tăng tâm thần vận động, rối loạn vận động, chóng mặt tư thế, run có chủ ý, rung giật nhãn cầu, rối loạn nhận thức, suy sút tinh thần, rối loạn phát âm, giảm phản xạ, tăng cảm giác, cảm giác bỏng rát, chứng mất vị giác, khó chịu. Hiếm gặp: Co giật, loạn khứu giác, giảm chức năng vận động, hội chứng khó viết.
Rối loạn về mắt: Thường gặp: Nhìn mờ, nhìn đôi. Không thường gặp: Mất thị lực ngoại vi, rối loạn thị giác, sưng mắt, khiếm khuyết trường thị giác, giảm thị lực, đau mắt, suy nhược thị lực, lóa mắt, khô mắt, tăng chảy nước mắt, kích ứng mắt. Hiếm gặp: Mất thị lực, viêm giác mạc, chứng nhìn dao động, thay đổi cảm nhận về độ sâu của thị giác, giãn đồng tử, lác mắt, độ sáng thị giác.
Rối loạn tai và tai trong: Thường gặp: Chóng mặt. Không thường gặp: Tăng thính lực.
Rối loạn tim: Không thường gặp: Nhịp tim nhanh, block nhĩ thất độ một, nhịp tim xoang chậm, suy tim sung huyết. Hiếm gặp: Kéo dài khoảng QT, nhịp xoang nhanh, loạn nhịp xoang.
Rối loạn về mạch: Không thường gặp: Tụt huyết áp, tăng huyết áp, bốc hỏa, đỏ bừng, lạnh ngoại vi.
Rối loạn hô hấp, ngực và trung thất: Không thường gặp: Khó thở, chảy máu cam, ho, nghẹt mũi, viêm mũi, ngáy, khô mũi. Hiếm gặp: Phù phổi, đau thắt cổ họng. Không rõ: Suy hô hấp.
Rối loạn tiêu hóa: Thường gặp: Nôn mửa, buồn nôn, táo bón, tiêu chảy, đầy hơi, chướng bụng, khô miệng. Không thường gặp: Bệnh trào ngược dạ dày thực quản, tăng tiết nước bọt, giảm cảm giác miệng. Hiếm gặp: Cổ trướng, viêm tụy, sưng lưỡi, khó nuốt.
Rối loạn gan mật: Không thường gặp: Tăng men gan *. Hiếm gặp: Vàng da. Rất hiếm gặp: Suy gan, viêm gan.
Rối loạn da và mô dưới da: Không thường gặp: Phát ban sẩn, mày đay, tăng tiết mồ hôi, ngứa. Hiếm gặp: Hội chứng Stevens-Johnson, đổ mồ hôi lạnh.
Rối loạn cơ xương và mô liên kết: Thường gặp: Chuột rút cơ, đau khớp, đau lưng, đau chân tay, co thắt cổ tử cung. Không thường gặp: Sưng khớp, đau cơ, co giật cơ, đau cổ, cứng cơ. Hiếm gặp: Tiêu cơ vân.
Rối loạn thận và tiết niệu
Không thường gặp: Tiểu không kiểm soát, khó tiểu. Hiếm gặp: Suy thận, thiểu niệu, bí tiểu.
Rối loạn tuyến vú và hệ thống sinh sản: Thường gặp: Rối loạn cương dương. Không thường gặp: Rối loạn chức năng tình dục, chậm xuất tinh, đau bụng kinh, đau vú. Hiếm gặp: Vô kinh, tiết dịch vú, to vú, nữ hóa tuyến vú.
Các rối loạn chung và tại chỗ dùng thuốc: Thường gặp: Phù ngoại vi, phù nề, dáng đi bất thường, ngã, cảm giác say, cảm giác bất thường, mệt mỏi. Không thường gặp: Phù toàn thân, phù mặt, tức ngực, đau, sốt, khát nước, ớn lạnh, suy nhược.
Các xét nghiệm
Thường gặp: Tăng cân. Không thường gặp: tăng creatin phosphokinase trong máu, tăng glucose máu, giảm số lượng tiểu cầu, tăng creatinin máu, giảm kali máu, giảm cân nặng. Hiếm gặp: Giảm số lượng bạch cầu.
* Alanin aminotransferase tăng (ALT) và aspartat aminotransferase tăng (AST).
Sau khi ngưng điều trị ngắn hạn và lâu dài với pregabalin, triệu chứng cai thuốc đã được quan sát thấy ở một số bệnh nhân. Các triệu chứng sau gợi ý đến sự lệ thuộc về thể chất có thể xảy ra: mất ngủ, nhức đầu, buồn nôn, lo lắng, tiêu chảy, hội chứng cúm, căng thẳng, trầm cảm, đau, co giật, tăng tiết mồ hôi và chóng mặt. Bệnh nhân cần được thông báo về điều này khi bắt đầu điều trị.
Liên quan đến việc ngưng điều trị lâu dài pregabalin, dữ liệu cho thấy tỷ lệ mắc phải và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng cai thuốc có thể liên quan đến liều dùng.
Trẻ em: Hồ sơ an toàn của pregabalin được quan sát trong năm nghiên cứu nhi khoa ở bệnh nhân bị động kinh cục bộ có hoặc không có cơn toàn thể thứ phát (nghiên cứu về hiệu quả và độ an toàn trong 12 tuần ở bệnh nhân từ 4 đến 16 tuổi, n = 295; nghiên cứu về hiệu quả và an toàn trong 14 ngày ở bệnh nhân 1 tháng đến dưới 4 tuổi, n = 175; nghiên cứu dược động học và khả năng dung nạp, n = 65; và hai nghiên cứu theo dõi, nhãn mở về độ an toàn trong 1 năm, n = 54 và n = 431) tương tự như được quan sát trong các nghiên cứu bệnh nhân trưởng thành với chứng động kinh. Các tác dụng ngoại ý phổ biến nhất được quan sát thấy trong nghiên cứu 12 tuần khi điều trị bằng pregabalin là buồn ngủ, sốt, nhiễm trùng đường hô hấp trên, tăng cảm giác thèm ăn, tăng cân và viêm mũi họng. Các tác dụng ngoại ý phổ biến nhất được quan sát thấy trong nghiên cứu 14 ngày với điều trị bằng pregabalin là buồn ngủ, nhiễm trùng đường hô hấp trên và sốt.
Thông báo cho bác sĩ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Trong quá trình lưu hành thuốc, các tác dụng không mong muốn thường gặp nhất khi dùng quá liều pregabalin bao gồm buồn ngủ, trạng thái lú lẫn, kích động và bồn chồn. Động kinh cũng được báo cáo. Hiếm gặp trường hợp hôn mê.
Điều trị quá liều pregabalin nên bao gồm các biện pháp hỗ trợ chung và có thể bao gồm cả thẩm phân máu nếu cần thiết.
Nơi khô, nhiệt độ không quá 300C, tránh ánh sáng.
Vì pregabalin được bài tiết chủ yếu qua nước tiểu dưới dạng không thay đổi, qua quá trình chuyển hóa không đáng kể ở người (< 2% liều thu hồi trong nước tiểu là chất chuyển hóa), không ức chế chuyển hóa thuốc in vitro, và không gắn kết với protein huyết tương, nên pregabalin ít có khả năng gây ra, hoặc chịu sự ảnh hưởng của các tương tác dược động học.
Các nghiên cứu in vivo và phân tích dược động học dân số
Theo đó, các nghiên cứu in vivo không thấy có các tương tác dược động học liên quan về mặt lâm sàng giữa pregabalin và phenytoin, carbamazepin, acid valproic, lamotrigin, gabapentin, lorazepam, oxycodon hay ethanol. Phân tích dược động học dân số cho thấy thuốc điều trị đái tháo đường dạng uống, thuốc lợi tiểu, insulin, phenobarbital, tiagabin và topiramat không có ảnh hưởng đáng kể về mặt lâm sàng đến độ thanh thải pregabalin.
Thuốc tránh thai đường uống norethisteron và/ hoặc ethinyl estradiol: Dùng đồng thời pregabalin với các thuốc tránh thai đường uống norethisteron và/ hoặc ethinyl estradiol không ảnh hưởng đến dược động học ở trạng thái ổn định của một trong hai chất.
Các thuốc ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương: Pregabalin có thể làm tăng tác dụng của ethanol và lorazepam. Trong quá trình lưu hành thuốc, có những báo cáo về suy hô hấp, hôn mê và tử vong ở bệnh nhân dùng pregabalin và opioid và/ hoặc các thuốc ức chế thần kinh trung ương (CNS) khác. Pregabalin làm tăng sự suy giảm chức năng nhận thức và chức năng vận động thô gây ra bởi oxycodon.
Tương tác thuốc và người cao tuổi: Không có các nghiên cứu tương tác dược lực học đặc hiệu ở người tình nguyện cao tuổi. Các nghiên cứu tương tác chỉ được thực hiện ở người lớn.
Đau thần kinh: chỉ định để điều trị đau thần kinh ngoại vi và trung ương ở người lớn.
Động kinh: chỉ định như là một liệu pháp hỗ trợ ở người lớn bị động kinh cục bộ có hoặc không có cơn toàn thể thứ phát.
Rối loạn lo âu lan tỏa: chỉ định để điều trị rối loạn lo âu lan tỏa ở người lớn.
CÁCH DÙNG: Dùng bằng đường uống. Có thể uống cùng hoặc không cùng với thức ăn.
LIỀU DÙNG: Khoảng liều dùng là 150 - 600 mg/ ngày, được chia 2 hoặc 3 lần.
Đau thần kinh: Điều trị với pregabalin có thể bắt đầu ở liều 150 mg/ ngày, chia 2 hoặc 3 lần. Dựa trên đáp ứng và khả năng dung nạp của từng bệnh nhân, liều có thể được tăng đến 300 mg/ ngày sau một khoảng thời gian từ 3 - 7 ngày, và nếu cần thiết, lên đến liều tối đa 600 mg/ ngày sau 7 ngày tiếp theo.
Động kinh: Điều trị với pregabalin có thể bắt đầu với liều 150 mg/ ngày, được chia 2 hoặc 3 lần. Dựa trên đáp ứng và khả năng dung nạp của từng bệnh nhân, liều có thể tăng đến 300 mg/ ngày sau 1 tuần. Liều tối đa là 600 mg/ ngày có thể đạt được sau một tuần nữa.
Rối loạn lo âu lan tỏa: Khoảng liều dùng là 150 - 600 mg/ ngày, được chia 2 hoặc 3 lần. Cần đánh giá lại thường xuyên nhu cầu điều trị. Có thể bắt đầu điều trị với liều pregabalin 150 mg/ ngày. Dựa trên đáp ứng và khả năng dung nạp của từng bệnh nhân, liều có thể tăng đến 300 mg/ ngày sau 1 tuần. Sau một tuần nữa liều có thể tăng đến 450 mg/ ngày. Liều tối đa là 600 mg/ ngày có thể đạt được sau một tuần nữa.
Ngưng dùng pregabalin: Theo thực hành lâm sàng hiện hành, nếu phải ngưng dùng pregabalin, nên thực hiện việc này từ từ trong tối thiểu 1 tuần mà không phụ thuộc vào chỉ định.
Bệnh nhân suy thận: Pregabalin được thải trừ ra khỏi hệ tuần hoàn chủ yếu nhờ bài tiết qua thận dưới dạng không đổi. Vì độ thanh thải pregabalin tỷ lệ thuận với độ thanh thải creatinin, giảm liều ở những bệnh nhân có chức năng thận bị tổn thương phải tùy theo độ thanh thải creatinin (ClCr) như hướng dẫn, được xác định theo công thức sau:
ClCr (mL/ phút) = [1,23 x (140 - tuổi) x cân nặng (kg)]/ creatinin huyết thanh (µmol/ L) (x 0,85 đối với bệnh nhân nữ)
Pregabalin được loại bỏ hiệu quả khỏi huyết tương nhờ thẩm phân máu (50% thuốc trong 4 giờ). Đối với những bệnh nhân đang thẩm phân máu, liều pregabalin hàng ngày nên được điều chỉnh dựa trên chức năng thận. Ngoài các liều hàng ngày, nên dùng liều bổ sung ngay lập tức mỗi 4 giờ sau khi thẩm phân máu.
Bệnh nhân suy gan: Không cần điều chỉnh liều cho bệnh nhân suy gan.
Trẻ em
Tính an toàn và hiệu quả của thuốc ở trẻ em dưới 12 tuổi và trẻ vị thành niên (12 - 17 tuổi) chưa được thiết lập.
Người cao tuổi: Bệnh nhân cao tuổi có thể cần giảm liều pregabalin do chức năng thận giảm.
Hoặc theo chỉ dẫn của Thầy thuốc.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH: Bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với hoạt chất hoặc với bất cứ thành phần nào của thuốc.
Đăng ký tài khoản - nhận ngàn thông tin
Bạn sẽ là một trong những người đầu tiên nhận được thông tin, tin tức, tin tuyển dụng... sớm nhất từ DHG Pharma. Hãy đăng ký ngay hôm nay để được hưởng ngàn ưu đãi từ DHG Pharma nhé.